Xuất bản thông tin

null Võ Văn Kiệt - nhà cải cách lớn trong thời kỳ đổi mới

Chi tiết bài viết Lịch sử

Võ Văn Kiệt - nhà cải cách lớn trong thời kỳ đổi mới

"Gần 70 năm hoạt động cách mạng vô cùng phong phú và sôi nổi; từ khi còn lặn lộn với phong trào cách mạng ở quê hương Vĩnh Long, ở Tây Nam Bộ, Sài Gòn - Gia Định, rồi Thành phố Hồ Chí Minh cho đến khi giữ cương vị cao của đất nước, cuộc đời của đồng chí Võ Văn Kiệt gắn liền với những chặng đường đấu tranh đầy hy sinh, gian khổ nhưng rất đỗi hào hùng, oanh liệt và vẻ vang của Đảng và nhân dân ta...

Thủ tướng Võ Văn Kiệt thăm hỏi người dân chợ Tân Công Sính, huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp năm 2001

Với tầm tư duy chiến lược, với quyết tâm đổi mới, tác phong sâu sát, quyết đoán, luôn tìm tòi trăn trở, đồng chí Võ Văn Kiệt đã đóng góp xứng đáng vào quá trình hoạt động và tổ chức thực hiện đường lối đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo. Tên tuổi của đồng chí gắn liền với những công trình lớn ở khắp mọi miền đất nước". Đó là những đánh giá trân trọng và chính xác về cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt trong lời điếu do Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, Trưởng ban lễ tang đọc tại Lễ truy điệu đồng chí Võ Văn Kiệt.

Là người gắn liền với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, từ phong trào Thanh niên phản đế năm 1938, Nam Kỳ khởi nghĩa năm 1940, qua 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp và 21 năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay; từ người thanh niên yêu nước tham gia cách mạng ở quê hương Trung Hiệp, huyện Vũng Liêm, tỉnh Vĩnh Long - một miền quê trù phú nằm giữa hai con sông (sông Tiền và sông Hậu) thuộc vùng đất "chín rồng" giàu truyền thống cách mạng, đến cương vị là Uỷ viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ, là Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đồng chí Võ Văn Kiệt - Sáu Dân không chỉ là con người của nhân dân, gần gũi với đồng bào mà còn là hình ảnh của một con người không ngừng hành động, không ngừng tiến công cách mạng với tất cả sự sáng tạo mãnh liệt, không mệt mỏi.

Thủ tướng Võ Văn Kiệt thuộc thế hệ lãnh đạo hàng đầu đi tiên phong trên con đường đổi mới đất nước, đưa đất nước vượt qua tình trạng khó khăn, trì trệ, từng bước phát triển và hội nhập. Ông quan niệm rõ ràng và nhất quán về đổi mới: "Đổi mới không phải là xóa bỏ hoàn toàn cái cũ hay từ bỏ chủ nghĩa xã hội mà là nhận thức lại một cách đúng đắn hơn về một chủ nghĩa xã hội nhân bản, hoàn thiện, với lý tưởng phục vụ con người, vì con người".

Ông là học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và là nhà lãnh đạo có nhiều đóng góp to lớn cho sự nghiệp đổi mới đất nước bởi tầm nhìn sâu rộng và trí tuệ sắc sảo. Những phẩm chất tiêu biểu đó được tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn cách mạng lâu dài và đặc biệt do phong cách gần gũi bình dị, khả năng tập hợp và khai thác có hiệu quả những tri thức tiên tiến của một tập thể chuyên gia giỏi về nhiều mặt chính trị, kinh tế, khoa học công nghệ, văn hoá nghệ thuật,…

Với tư tưởng "đã rửa được nỗi nhục mất nước, đang phấn đấu rửa nỗi nhục đói nghèo", đồng chí Võ Văn Kiệt đã ngày đêm trăn trở làm sao cho dân giàu, nước mạnh, đất nước, dân tộc được phồn vinh để sánh vai với các cường quốc năm châu như ý nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh, những trăn trở ấy đã thôi thúc ông luôn sâu sát thực tế, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, cổ vũ và sẵn sàng dấn thân cho cái mới.

Có Thủ tướng Võ Văn Kiệt là nhà cải cách tiêu biểu trong thời kỳ đổi mới. Ông đã tiếp thu và phát triển tư tưởng cải cách của Bác Hồ. Trong một lần trả lời phỏng vấn báo Tuổi trẻ, ông đã nói rằng: Người để lại cho tôi ấn tượng sâu sắc nhất về cải cách là Bác Hồ. Những tư tưởng của Bác vẫn đang dẫn dắt chúng ta trong sự nghiệp đổi mới ngày nay.

Vào những năm cuối thập kỷ 70 đầu thập kỷ 80 của thế kỷ XX, khi "thị trường" còn là điều cấm kỵ, nền kinh tế bị "trói chặt" trong cơ chế "tập trung" và chế độ bao cấp hoang phí, là Uỷ viên dự khuyết của Bộ Chính trị, đứng đầu cơ quan lãnh đạo của Đảng ở Thành phố Hồ Chí Minh, ông đã đến từng nhà máy loay hoay tiến hành những cuộc thể nghiệm cục bộ không có tiền lệ và ngoài vòng pháp luật hiện hành. Ông trò chuyện với công nhân và đứng sau các giám đốc dám đánh đổi tất cả để sản xuất bung ra. Lúc đó, người ta nói rằng: Nhân dân Sài Gòn vốn có nhiều kinh nghiệm trong kinh tế thị trường đã cứu lấy Đảng bộ của mình. Nhưng không thể không thừa nhận sự bứt phá của cá nhân ông Kiệt trong suy nghĩ và hành động nhằm vượt qua thực trạng kinh tế tiêu điều lúc ấy([1]).

Trên thực tế, những năm cuối thập kỷ 70 đầu thập kỷ 80 thế kỷ XX, trong khó khăn chung của nền kinh tế, vẫn có những địa phương, nhất là có những cơ sở làm ăn năng động, sáng tạo, rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm quý báu. Võ Văn Kiệt thấy rằng, tất cả điều đó là sức sáng tạo của nhân dân lao động; những nhân tố mới nảy nở từ lao động chính là thực tiễn khoa học để kiểm tra lý luận. Một khi nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy, thể hiện trong thực tế chứ không chỉ là một khẩu hiệu, thì từ quần chúng sẽ nảy nở những biện pháp hay, tạo ra sức bật mới. Ông cho rằng những hành động cách mạng của quần chúng trong những năm trước Đổi mới, được gọi là "bung ra", "xé rào", xóa bỏ rào cản của những công thức giáo điều vốn đóng khung trong những cơ chế đã bị cuộc sống vượt qua chính là sự thể hiện trí tuệ, sức năng động, sáng tạo của nhân dân, cho thấy không có một tình huống khó khăn nào mà không có lối ra. Theo ông, chỉ cần Đảng biết vực dậy và phát huy tiềm năng vô hạn trong quần chúng nhân dân; chúng ta biết thực sự cầu thị, dám vượt qua chính mình, chân thành lắng nghe và trân trọng tiếp thu những tiếng nói trung thực của mọi người Việt Nam vốn nặng lòng với đất nước, mở rộng dân chủ để mọi sáng kiến, mọi kế sách tâm huyết đến được những nơi cần đến, thì chắc chắn công cuộc phát triển đất nước sẽ đạt nhiều thành tựu to lớn.

Ông thường xuyên lắng nghe ý kiến tâm huyết của các chuyên gia có tư duy đổi mới với tinh thần cầu thị; trân trọng những người có chính kiến, trao đổi ý kiến cởi mở, thẳng thắn. Và chính từ đó, ông có được vốn sống cực kỳ phong phú làm cơ sở, nền tảng cho những quyết sách mang tầm chiến lược:

Đầu tiên phải kể đến là những đóng góp cả về tư duy và hành động cho việc xóa bỏ cơ chế kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp, hoạch định và thực hiện đường lối đổi mới đất nước, cải cách hệ thống kế hoạch, dần dần thừa nhận quyền tự chủ của xí nghiệp quốc doanh, của địa phương. Sau đó là việc tổ chức lại hệ thống ngân hàng. Với sự tham vấn của các chuyên gia kinh tế có kinh nghiệm, ông đã thành công trong chuyển đổi hệ thống ngân hàng nhà nước. Từ đó, các ngân hàng thương mại quốc doanh mới thực sự có sức sống.

Đại hội VI năm 1986 của Đảng, ông được giao chịu trách nhiệm thiết kế ba chương trình kinh tế lớn: Về lương thực, thực phẩm; sản xuất hàng tiêu dùng; sản xuất hàng xuất khẩu. Ba chương trình được thúc đẩy đồng bộ, quyết liệt làm thay đổi cục diện kinh tế. Đến năm 1989, từ một nước thiếu ăn, lần đầu tiên ta đã xuất khẩu gạo - đây được xem là quyết sách táo bạo mang đậm dấu ấn Võ Văn Kiệt.

Cần phải đối mới tư duy mà trước tiên là tư duy kinh tế để mở tung mọi ngả đường khám phá những nguồn lực bên trong cũng như bên ngoài để giành lấy cho được mục tiêu phát triển kinh tế, an dân và ổn định chính trị . Năm 1991, lạm phát ở mức ba con số (125%), thì đến năm 1994 giảm xuống rất nhanh ngoài sức tưởng tượng với 14,7% và GDP tăng đều trong nhiều năm liền ở mức trung bình 8%. Có được kết quả đó là công sức chung của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, đồng thời cũng gắn bó với tên tuổi và sự nghiệp của đồng chí Võ Văn Kiệt.

Hàng loạt công trình mang tầm thế kỷ mà mỗi khi nhắc đến người ta lại nghĩ đến tên ông: Công trình Thủy điện Trị An, khai phá Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên - biến nơi đây thành vựa lúa lớn nhất của cả nước, đường dây tải điện 500 kV Bắc - Nam, đường Bắc Thăng Long - Nội Bài, đường Hồ Chí Minh, Nhà máy Lọc dầu Dung Quất và phát triển ngành dầu khí, viễn thông, hàng không, các tổng công ty lớn của Nhà nước, các đại học quốc gia, các khu công nghệ cao, Làng văn hoá các dân tộc Việt Nam...

Thủ tướng Võ Văn Kiệt còn là người thuộc thế hệ lãnh đạo hàng đầu đi tiên phong trên con đường đổi mới chính sách đối ngoại của đất nước, đưa đất nước thoát khỏi thế bị bao vây cấm vận và tạo ra những mối quan hệ ngoại giao mới phù hợp với lợi ích đất nước và xu thế thời đại, cần có tinh thần chủ động, độc lập, tự chủ và sáng tạo. Trong chính sách ngoại giao, ông thường đề cập đến tư tưởng ngoại giao của Hồ Chí Minh và chính ông là một trong những cán bộ lãnh đạo đã phát huy tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh. Trong bài phát biểu tại Diễn dàn Kinh tế thế giới được tổ chức tại Đavốt (Thụy Sĩ) năm 1990, ông nói: …Chúng tôi sẵn sàng bình thường hoá các mối quan hệ với Hoa Kỳ cũng như chúng tôi đã nhiều lần bày tỏ. Chúng tôi cũng khẳng định và thiết tha mong muốn nối lại các mối quan hệ láng giềng truyền thống của hai nước và hai dân tộc anh em với Trung Quốc... Chúng tôi mong muốn mở rộng mối quan hệ hợp tác với tất cả các nước trên thế giới, trên cơ sở tin cậy lẫn nhau, tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, bình đẳng và cùng có lợi.

Đầu năm 1994, Thủ tướng Võ Văn Kiệt đề cập một số vấn đề đường lối ngoại giao thời kỳ Đối mới. Thủ tướng nêu rõ, những năm tháng đấu tranh giải phóng dân tộc đã sản sinh ra nền ngoại giao cách mạng, kết hợp sức mạnh dân tộc với thời đại, góp phần to lớn giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Nền ngoại giao thời kỳ đó kế thừa và phát huy ngoại giao truyền thống, được nhà ngoại giao lỗi lạc Hồ Chí Minh nâng lên ngang tầm thời đại. Thủ tướng nhận xét, chính sách ngoại giao nào cũng được quy định bởi một hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Nền chính trị thế giới ngày nay đang chuyển giai đoạn, hình thành những tập hợp lực lượng mới về chính trị, kinh tế. Đường lối ngoại giao nước ta chuyển trọng tâm sang tạo điều kiện quốc tế thuận lợi phục vụ an ninh, phát triển, thêm bạn, bớt thù. Ngay trong quá trình này, việc xử lý các vấn đề quốc tế phức tạp đòi hỏi vận dụng đúng đắn, kịp thời, nhuần nhuyễn giữa nguyên tắc và sách lược sao cho ích nước, lợi nhà, hợp xu thế. Thủ tướng nhấn mạnh: Cần thêm thời gian để tổng kết thức tiễn phong phú, song tôi nghĩ rằng, đường lối ngoại giao mới kết hợp được bản sắc dân tộc, ngoại giao truyền thống và những đặc điểm thời đại. Với chính sách ngoại giao đúng đắn ấy, Việt Nam đã lần lượt bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc, Hoa Kỳ… và gia nhập nhiều tổ chức trong khu vực và trên thế giới. Trên mặt trận đối ngoại, dấu ăn Võ Văn Kiệt in đậm trên chặng đầu của con đường nâng cao vị thế nước ta như một thành viên có trách nhiệm, tích cực và xây dựng trong cộng đồng quốc tế.

Với hơn 70 năm tham gia cách mạng, ông đã cống hiến gần như toàn bộ cuộc đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc và đổi mới đất nước. Tên tuổi của ông gắn liền với một giai đoạn lịch sử oai hùng và đầy thử thách của dân tộc qua những hoạt động phong phú và nổi bật mang dấu ấn đặc sắc, dấu ấn Võ Văn Kiệt. Dấu ấn về tư tưởng và quyết tâm đổi mới đất nước, đưa đất nước vượt qua tình trạng khó khăn, trì trệ, từng bước phát triển và hội nhập. Dấu ấn về bầu nhiệt huyết không hề vơi cạn theo thời gian và tuổi tác của con người. Qua hoạt động thực tiễn và lý luận hơn nửa thế kỷ của mình, với đất nước: Ông là nhà cải cách lớn; với nhân dân: Ông là nhà cách mạng biết lắng nghe, thấu hiểu, yêu nước, thương dân; với ngoại giao: Ông là một trong những người tiên phong mở đường cho sự nghiệp đối ngoại thời kỳ Đổi mới; với bạn bè quốc tế: Ông là một nhà lãnh đạo mang tư tưởng lớn, nhân cách lớn.

Tạ Quang Trung

 

([1]) Ấn tượng Võ Văn Kiệt, Sđd, tr.126.